Lễ hội Chùa Láng
Chùa Láng (có tên chữ là Chiêu Thiền tự) ở phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, thời vua Lý Anh Tông là ngôi chùa thờ Phật, thờ Thánh, gắn với Thiền sư Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tông. Chùa có 2 lớp cổng: Nghi môn và tả - hữu vu dành cho Thánh, Tam quan thuộc về chùa. Đám rước ở chùa Láng gắn với văn hóa tín ngưỡng dân gian xưa mà không gắn với nhà Phật. Tượng Đức Thánh Láng có cốt bằng mây và tượng gốc màu huyết dụ, ít nhiều có mối quan hệ với Tứ pháp. Lễ hội Láng vào tháng Ba gắn với lễ hội cầu mưa của cư dân Đông Nam Á như Chol Chnam Thmay (của cộng đồng người Khmer) để bước vào vụ mùa. Đối với Đức Thánh Từ, lễ hội tôn vinh Ngài diễn ra từ mùng 5 đến mùng 8 tháng Ba Âm lịch với những tích truyện và cốt tượng, màu tượng tương ứng màu Tứ pháp khiến người ta thấy đây là ngôi chùa hết sức đặc biệt cả về vật thể và phi vật thể.
Lễ hội Chùa Láng thực chất là lễ hội mùa xuân của cả một vùng gồm nhiều làng ở hai bên bờ sông Tô Lịch, Hà Nội xưa gồm ba thôn: Láng Thượng, Láng Trung và Láng Hạ, kéo dài từ Cầu Giấy đến cầu Mọc hiện nay. Ngoài ra, tham gia hội còn có sự góp mặt của dân quanh vùng như Dịch Vọng, Yên Hòa, Mọc… Cái độc đáo làm nên nét riêng của lễ hội là hình thức trình diễn “đấu thần” giữa Từ Đạo Hạnh và pháp sư Đại Điên. Lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống quê hương làng Láng, đồng thời tưởng nhớ các vị anh hùng, tiền bối đã có nhiều công lao với làng Láng, với dân tộc là Đức Thiền sư Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tông - hóa thân của Đức Thiền sư.
Liên quan đến việc thờ tự và lễ hội chùa Láng, người dân nơi đây có tục hèm như: trong chùa Láng không thờ Ngũ hổ và lễ rước cũng không có hổ, các gia đình làng Láng không được chơi tranh hổ, thờ ngũ hổ, bắt nguồn từ truyền thuyết về căn bệnh “hóa hổ” của vua Lý Thần Tông (hóa thân của Đức Thánh Từ); không đặt tên húy của Đức Tổ Mẫu (Loan) và tên của Đức Thánh (Hạnh).
Xưa, Hội chùa Láng là một hội lớn, do vậy không phải năm nào cũng tổ chức, mà phải mười đến mười lăm năm mới mở đại hội một lần. Đó là thời gian mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân khang vật thịnh và hội kéo dài đến cả tháng. Hội bắt đầu bằng đám rước Thánh lên chùa Nền thăm lại nơi “chôn rau cắt rốn”, rồi rước Thánh xuống chùa Tam Huyền thăm cha, hoàn cung về chùa múa chầu Thánh của 10 cô gái trẻ, đám rước kiệu Thánh do các đô là những thanh niên chưa vợ, nhà không có tang cớ để “độ hà” (lội qua sông Tô Lịch), đến chùa Duệ Tú, “đấu pháo” (lễ “đấu thần”), rước đến chùa Hoa Lăng và quay về chùa Láng. Cùng với hội Láng, các chùa quanh làng Láng đều diễn ra những hoạt động sôi nổi mừng hội.
Ngày nay, Lễ hội chùa Láng được cộng đồng và chính quyền phường Láng Thượng tổ chức từ ngày 5-8/ tháng Ba. Những người nắm giữ vai trò gồm: 4 ông thủ kiệu (hai kiệu ngoại, hai kiệu nội), 24 trai tráng vào hàng đô ngoại, 16 trai tráng vào hàng đô nội, cử sáu ông cai đám, đội tế, đội cờ, đội nữ múa sênh tiền, đội bát bửu, đội rồng, đội sư tử, đội trống, phường bát âm… giống như lễ hội trước đây. Lễ vật dâng cúng đặc biệt có mâm cỗ chay mang biểu tượng của vũ trụ, cùng uy danh của Đức Thánh với gam màu vàng chủ đạo, tượng trưng cho màu vàng Thiên tử và cũng là sắc vàng đạo Phật; bánh khảo tượng trưng cho trung ương Hoàng đế, bốn cặp bánh chưng, bánh dày tượng trưng cho các vị Tứ trấn Thiên Vương, gợi nhớ thủa xưa bốn vị đã cảm động trước công đức trì niệm của Thiền sư họ Từ mà xuống xin được Đức Thánh sai bảo.
Ngày 5 tháng Ba, dân làng rước kiệu Thánh và bát hương đến chùa Nền, chiều rước kiệu hoàn cung.
Sáng mùng 6, các cụ cao niên rước bát hương theo kiệu Long đình từ chùa Láng xuống Cáo yết ở chùa Tam Huyền - nơi thờ Đức Thánh phụ Từ Vinh để làm lễ, xong thì quay về Láng đưa bát hương nhập cung. Tiếp đó, thanh niên được lựa chọn vào các hàng đô ra nhà bát giác để hoành kiệu (lắp kiệu). Buổi chiều, dân của ba làng: Láng Thượng, Láng Trung và Láng Hạ chuẩn bị lễ vật công phu, đặt trong kiệu và được hàng đô là các thanh niên trẻ, có sức vóc trong làng rước lên chùa. Nghi thức quan trọng nhất trong ngày này là nghi thức Giải y phục vào đúng 12 giờ đêm. Nhà sư làm lễ cúng Khao thỉnh xin phép Đức Thánh vào cung làm lễ bao sái bằng nước hoa bưởi, thay áo cà sa mặc long bào. Để đảm bảo sự tôn nghiêm, linh thiêng, chỉ một vài người được phép có mặt trong cung làm lễ. Đây là nghi thức mang nhiều ý nghĩa và giá trị bởi nó tái hiện huyền tích tái sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh thành vua Lý Thần Tông. Sau khi Giải y phục và Khai quang, người dân mới được phép chiêm ngưỡng Đức Thánh từ phía bên ngoài. Phải đến ngày 15 tháng Ba, người ta mới làm lễ tạ, giải triều phục, mặc áo cà sa nhà Phật cho Đức Thánh.
Sáng mùng 7, lễ rước kiệu Thánh từ chùa ra đường lớn được tổ chức rất long trọng. Sau hồi trống lệnh mọi người chuẩn bị; một hồi trống tiếp theo, các đô tùy ngoại đầu đội mũ quả dưa, mình đóng khố bao, khăn nhiễu điều quàng chéo vai, theo hai hàng đôi vào rước tượng Thánh ra sập đá trước Tam quan để chồng đòn kiệu. Một hồi trống được gióng lên, các đô tuỳ ngoại rước kiệu ra cửa Tam quan để chờ các làng kết chạ như Láng Hạ, Thành Công, Yên Hòa cùng rước long đình đến nhập cuộc rước. Đoàn rước có các loại cờ, trống, chiêng, voi bành, ngựa gỗ, lọng che, siêu đao, họa kích, tàn vàng, chấp kích, đội sênh tiền, ông Lệnh cầm cờ vía, phường bát âm… Dọc quãng đường đoàn rước đi qua, khoảng vài chục mét lại có một hương án, đèn nhang được đặt bên đường với một bô lão túc trực bái lễ đám rước đi qua, tượng trưng cho thần dân bái vọng Thiên tử. Đoàn rước đi một vòng rồi trở về chùa và an vị kiệu tại nhà bát giác. Cụ chủ tế đánh trống báo hiệu ngày chính hội bắt đầu, người dân trong vùng vào chùa dâng hương, theo thứ tự là Láng Thượng, Láng Hạ, Thành Công, Yên Hòa.
Sau khi dâng hương là phần tế lễ của các cụ ông nhằm tôn vinh công lao của Đức Thánh Láng, bài văn tế được đem đi hóa sau khi thực hiện xong nghi lễ. Buổi chiều, đội tế nữ chùa Láng làm lễ dâng hương tế Thánh. Tối mùng 7 tháng Ba, các pháp sư thực hiện nghi thức Dẫn lục cúng tại chùa, nguyện cầu cho quốc thái dân an, người được bình yên, hạnh phúc với sáu lễ vật bao gồm: nhang, đăng, hoa, trà, quả, thực.
Sáng mùng 8, các đoàn tế lễ, dâng hương của các khu vực lân cận tiếp tục vào làm lễ tế Thánh. Buổi chiều là lúc diễn ra các trò chơi dân gian như: thổi cơm thi, đập niêu, chọi gà, hội thơ, hội thư pháp, thi đấu cờ tướng, hát quan họ, chầu văn, cải lương, múa…, trong đó đặc sắc nhất phải kể đến thổi cơm thi. Nồi cơm ngon nhất sẽ được dâng lên Đức Thánh. Kết thúc lễ hội là lễ tế hạ hội do các cụ ông tiến hành vào lúc chiều tối.
Lễ hội Chùa Láng mang đậm giá trị lịch sử, phảng phất sắc màu huyền thoại gắn liền với Thiền sư Từ Đạo Hạnh - người được dân gian vừa coi là Tăng, vừa là Phật, là vua và là Tổ sư nghề múa rối cổ truyền. Cũng có thể nói, lễ hội là sản phẩm do người dân tại làng Láng sáng tạo và giữ gìn trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quá trình ra đời và phát triển lâu dài của lễ hội đã thể hiện được lịch sử hình thành của khu vực được gọi là Kẻ Láng - nơi có loại rau thơm đã trở thành đặc sản lừng danh “húng Láng”. Lễ hội thể hiện niềm tin mang tính lịch sử, phản ánh đời sống của cư dân nông nghiệp gắn liền với công việc cầu mưa, chống lũ lụt, bảo vệ mùa màng của cư dân Láng; ước mong bình an, cuộc sống ấm no, đủ đầy; tín ngưỡng phồn thực được thể hiện bằng các nghi thức như múa con đĩ đánh bồng, đấu thần, dẫn lục cúng, múa rồng - sư tử… Lễ hội chùa Láng là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, sự liên kết cộng đồng sâu sắc giữa các thôn làng tham gia lễ hội. Sự đồng tâm, nhất trí của cả một cộng đồng gồm nhiều thôn xã trong việc phân công, tổ chức, thực hành lễ hội đã góp phần củng cố tình đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau, duy trì thuần phong mỹ tục của địa phương. Lễ hội chùa Láng chứa đựng những ý nghĩa to lớn về mặt xã hội: tạo không khí lành mạnh, vui tươi, phấn khởi trong làng xã, đồng thời góp phần đẩy lùi những tệ nạn xã hội ra khỏi cộng đồng dân cư, làm cho xã hội ổn định, bền vững …
Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội chùa Láng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4611/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019./.
Dương Anh
Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa