Một số thành tựu nổi bật trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa năm 2011
Năm 2011, trong bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sự nghiệp bảo vệ và phát huy di sản văn hóa vẫn luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và thu hút được sự tham gia ngày càng đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức, đoàn thể trên mọi miền đất nước. Trên cơ sở đó, ngành Di sản văn hóa đã đạt được một số thành tựu nổi bật, cụ thể:
- Hệ thống pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa tiếp tục được hoàn thiện, với 02 Thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa và Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ đã được ban hành (Thông tư số 09/2011/TT-BVHTTDL ngày 14/7/2011 quy định về nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh; Thông tư số 22/2011/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2011 quy định về điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở giám định cổ vật).
- Di tích Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới, Hát Xoan Phú Thọ được ghi danh Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, nâng tổng số di sản thế giới ở Việt Nam lên con số 15 (trong đó có 07 di sản văn hóa và thiên nhiên, 06 di sản văn hóa phi vật thể và 02 di sản tư liệu). Hồ sơ các di sản văn hóa: Tín ngưỡng thờ Hùng Vương, Nghệ thuật Đờn ca tài tử, Vườn Quốc gia Cát Tiên và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (đề nghị công nhận lần thứ hai về tiêu chí đa dạng sinh học) đã và đang được hoàn thiện, trình UNESCO đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng theo quy định.
- 71 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng di tích quốc gia (tổng số di tích quốc gia hiện tại là 3.127, trong đó có 10 di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt); 37 địa điểm được cấp phép thăm dò khai quật khảo cổ học; 12 hồ sơ di tích được nghiên cứu, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đợt hai; 29 hiện vật được lập danh sách trình Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia; trên 200 quy hoạch, dự án, đồ án thiết kế và báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ, tôn tạo di tích, điều chỉnh khoanh vùng bảo vệ di tích của các địa phương đã được thẩm định, thỏa thuận.
- Hệ thống bảo tàng Việt Nam (gồm 132 bảo tàng, lưu giữ và trưng bày gần 3 triệu đơn vị tài liệu, hiện vật) tiếp tục được phát triển theo Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020, với hai sự kiện nổi bật: Bảo tàng Lịch sử quốc gia được thành lập trên cơ sở sáp nhập Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Cách mạng Việt Nam; Bảo tàng Đắk Lắk được khánh thành vào cuối năm 2011, là bảo tàng đầu tiên ở Việt Nam sử dụng 4 ngôn ngữ trong trưng bày (tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Êđê - ngôn ngữ của cư dân bản địa đông nhất tỉnh).
- Nhiều di sản văn hóa phi vật thể ở hầu hết các địa phương đã và đang được kiểm kê theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 37 tỉnh, thành phố đã có báo cáo kết quả kiểm kê đợt đầu; 12 di sản văn hóa phi vật thể được dự kiến lập hồ sơ trình UNESCO giai đoạn 2012 - 2016.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa đang phải đương đầu với không ít những khó khăn, thách thức cần phải giải quyết, như: việc tu bổ, tôn tạo một số di tích thiếu cơ sở khoa học, chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về di sản văn hóa; tình trạng vi phạm trong việc sử dụng và khai thác di tích, đặc biệt là xu thế thương mại hóa, đặt các mục tiêu, dự án phát triển kinh tế cao hơn các mục tiêu về văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng; tình trạng trộm cắp, đào bới, buôn bán trái phép cổ vật; việc triển khai kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể còn chậm; hoạt động bảo tàng nói chung và trưng bày bảo tàng nói riêng còn hạn chế, đơn điệu thiếu năng động, sáng tạo; việc phân cấp quản lý di sản văn hóa còn chồng chéo... Những hạn chế này cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, nhất là trong hệ thống các đơn vị thuộc ngành Di sản văn hóa để sớm giải quyết có hiệu quả trong thời gian tới.
Có thể khẳng định: năm 2011 - năm đầu tiên triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, những thành tích ngành Di sản văn hóa đạt được đã đóng góp tích cực vào việc gìn giữ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về giá trị, vai trò và ý nghĩa của di sản văn hóa, thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển và góp phần tôn vinh vị thế, hình ảnh của Tổ quốc trên trường quốc tế.