Múa của người Khơ Mú
Người Khơ Mú sinh sống ở thành phố Điện Biên Phủ, huyện Điện Biên, huyện Điện Biên Đông, huyện Mường Ảng, huyện Tuần Giáo, huyện Tủa Chùa, huyện Mường Chà, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, đã sáng tạo và thực hành nhiều điệu múa gắn với nghi lễ, đời sống sinh hoạt của cộng đồng. Các điệu múa của người Khơ mú (còn gọi là Tẹ) nổi bật như: múa chiêng kết hợp với ống tre, ống nứa (Tẹ ôm đing); múa đánh đao (Tẹ tăm đao); múa sạp (Tẹ khiêps); múa chọc lỗ tra hạt (Tẹ chư mon); múa lắc eo (Tẹ cưn viết guông); múa cá lượn (Tẹ gănr cạ); múa vòng tròn (Tẹ kưn vong do), múa đuổi chim...
Tẹ ôm đêng hoặc Tẹ ôm đing (múa ống tre, ống nứa), có tên gọi khác là múa tăng bẳng, tăng bu, Tẹ prin (múa trống), Tẹ prapang (múa chiêng), múa dỗ ống, múa lên nhà mới, múa trong đám cưới.
Theo truyện cổ của người Khơ mú, điệu múa ra đời từ việc dùng ống nứa đi lấy nước, dành cho nam múa. Những ống tre/nứa có đốt to, thẳng, dài, bên trong rỗng nhằm tạo âm thanh trong quá trình múa dỗ ống. Khi múa ở trong nhà, người múa cầm 02 tay 2 ống dỗ - rập xuống sàn nhà. Nếu múa ở ngoài, người ta kê một tấm ván dài đặt trên mặt đất để dỗ ống tạo âm thanh, cũng có khi người múa chỉ sử dụng 01 ống kết hợp những động tác tay không và sự uốn lượn mềm mại của cơ thể để múa. Hình thức múa có thể là nhún dỗ ống tại chỗ, nhún xoa ống, nhảy tiến lùi, nhảy xoay tại chỗ, dỗ ống nhảy ngang... Nhịp dỗ ống, người Khơ Mú thường dỗ 03 nhịp liên tiếp rồi nghỉ và cứ lặp lại như vậy.
Một số địa phương thực hành điệu múa thường sử dụng nhạc cụ là chiêng kết hợp với tăng bẳng, tăng bu, nhưng cũng có nơi kết hợp cả trống, chiêng và ôm đing trong quá trình múa. Người Khơ Mú thường múa trong dịp lễ hội, khi đón dâu về nhà trai và khi lên nhà mới. Trong trường hợp múa chiêng khi lên nhà mới hoặc trong đời sống sinh hoạt thì trước khi gõ chiêng để múa, chủ nhà phải làm lý, làm cúng xin phép tổ tiên, thần linh thổ địa cho phép gia đình tổ chức múa vui ở trong nhà. Khi dùng chiêng mới, người Khơ Mú làm lễ gọi hồn cho chiêng và xin phép thần linh,với quan niệm nếu không xin phép thì sẽ mang lại điều xấu cho gia đình và bà con dân bản. Điệu múa Tẹ ôm đing thể hiện sự hài hòa giữa nam và nữ, họ sóng đôi cùng múa một cách nhịp nhàng, đó còn là sự kết hợp giữa âm và dương, điệu múa mang ý nghĩa phồn thực, cầu cho sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu.
Múa Tăm đao (Tẹ Tăm đao)
Theo tiếng Khơ Mú, "tăm" là đánh, "tẹ" là múa, "tăm đao", "tẹ tăm đao" là múa đánh đao (tay đánh đao kết hợp với ngôn ngữ hình thể tạo thành điệu múa).
Múa Tăm đao là điệu múa được dành cho nữ giới, đạo cụ sử dụng là Tăm đao. Múa Tăm đao bắt nguồn từ việc người phụ nữ cầm đao để đánh trong quá trình đi nương, đi rừng, tạo ra những âm thanh vui tai để quên đi sự mệt nhọc. Trong lễ cầu mưa, lễ cầu mùa, người phụ nữ di chuyển từ nhà thầy cúng đến nương đồi - vị trí được chọn để thực hiện các nghi lễ, vừa đi vừa đánh đao tạo âm thanh để tiếp thêm niềm vui, sự hứng khởi cho những người tham gia thực hành nghi lễ.
Tăm đao được làm từ thân của cây nứa nhỏ, không quá già, muốn sử dụng được lâu bền và tạo âm thanh vang và hay thì phải được cất giữ trên gác bếp, trước khi dùng mang ngâm vào nước để đao giãn nở cũng như giữ được độ tươi của đao. Thân nứa một đầu giữ lại phần mấu, đầu kia bỏ mấu, phía trên đầu của mấu người ta đục 02 lỗ nhỏ nằm ở hai bên đối xứng nhau, khi đánh ngón tay cái đặt lên phần lỗ ở thân trên, ngón tay trỏ hoặc ngón giữa đặt ở vị trí lỗ phía bên dưới để điều chỉnh âm thanh, giai điệu khi múa Tăm đao. Phần phía đầu không có mấu người ta vát nhẹ hai bên thân ống tạo thành trạc hình chữ “U” dài khoảng 25 - 30cm, giữa hai cánh trạc có xẻ một khe nhỏ vào thân ống để kẹp một sợi chỉ nhỏ, sợi chỉ này cũng có tác dụng điều tiết âm thanh. Khi đánh người ta gõ phần gốc của cánh trạc vào lòng bàn tay để hai cánh trạc rung tạo thành âm thanh. Phụ nữ Khơ Mú đánh đao thường từ 02 đến 03 nhịp vào lòng bàn tay rồi nhún chân tùy thuộc vào việc diễn tả tâm trạng buồn hay vui; trường hợp biểu diễn với không khí vui tươi, phấn khởi thường có tiết tấu nhanh với 03 nhịp liên tiếp (02 nhịp kép, 01 nhịp đơn), kết hợp với nhún chân, lắc eo. Khi múa có thể dùng đao to và đao bé (đao mẹ và đao con), đao mẹ sử dụng tạo ra âm thanh chính. Việc sử dụng đao lớn bé khác nhau còn phụ thuộc vào đội hình múa có khả năng sử dụng đao thành thạo hay không, nếu đội hình biết đánh đao tạo âm thanh đồng đều kết hợp những động tác múa thì các đao được lựa chọn để múa là đều nhau; trường hợp đội hình múa sử dụng đao không đồng đều thì có một đao mẹ do một người chính điều khiển đội múa. Múa tăm đao là sự kết hợp giữa đánh đao và tạo ra các tuyến múa, chân nhún nhịp nhàng, tay múa và uốn người, lắc hông mềm mại (tức động tác múa ong eo).
Múa chọc lỗ tra hạt (Tẹ chư mon)
Thực hành trong Lễ tra hạt, sử dụng đạo cụ là những cây gậy (dùng để chọc lỗ) để cầu mong các thần linh phù hộ cho dân bản vào vụ mùa mới bội thu. Điệu múa hòa cùng tiếng trống, chiêng thể hiện sự giao hòa âm dương, thức dậy những khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Khi điệu múa bắt đầu, đàn ông khỏe mạnh đi trước, vừa nhún nhẩy, vừa vung gậy chọc lỗ; phụ nữ nối bước đi sau hoặc cũng có khi dàn hàng song song một cặp nam và nữ múa kết hợp. Đây là điệu múa đôi có sự hòa quyện giữa nam và nữ - tượng trưng cho sự giao hòa âm và dương, đất và trời khiến cho hạt giống nảy mầm, cây cối sinh sôi, phát triển. Động tác múa được thực hiện một cách nhịp nhàng, cả nam và nữ cùng lấy chân phải làm trụ, chân trái nhấc lên đưa về phía trước nhằm giữ thăng bằng cho cơ thể; tay phải của người đàn ông cầm đầu trên của chiếc gậy, tay trái cầm ở chính giữa và đặt chéo chiếc gậy ở ngang người, đầu dưới của chiếc gậy dùng để dỗ xuống đất. Lúc này chân phải của cả nam và nữ cùng múa nhảy lò cò 03 lần kết hợp với động tác tay - đối với nam thì dỗ đầu dưới của gậy xuống đất (ở bên trái) 03 lần, nữ ở phía sau hoặc có khi dàn hàng ngang bên cạnh người đàn ông, tay phải nắm hạt, tay trái ném hạt xuống lỗ mà người đàn ông vừa chọc. Kết thúc 03 nhịp chọc lỗ tra hạt, đôi nam nữ múa sẽ dừng nghỉ một nhịp rồi đổi bên. Tiếp đến là chân trái nam và nữ làm trụ nhảy lò cò 03 nhịp, tay đưa sang phải để chọc lỗ, tra hạt. Cứ như vậy, nam đi trước chọc lỗ, nữ nối tiếp đi sau tra hạt giống, chân gạt nhẹ như lấp đất, từng cặp nam nữ múa nhịp nhàng, uyển chuyển, hài hòa trong tiếng trống chiêng rộn ràng. Âm thanh của nhạc khí phát ra từ những chiếc gậy như đánh thức đất trời, khích lệ những người tham gia lao động. Sau mỗi mùa vụ trồng lúa nương, cây gậy chọc lỗ này được đặt trang trọng trên gác bếp để gậy thêm cứng, màu thêm bóng và tránh mối mọt.
Múa sạp (tẹ khiêps)
Tiếng Khơ Mú gọi múa sạp là Tẹ mặc khriếp, trong đó "tẹ" là múa, " mặc khriếp " là sạp. Theo truyền thống và quan niệm trước đây, người Khơ Mú thường múa sạp trong Lễ cầu mưa. gắn với nghi lễ cầu mưa là bởi cây sạp dùng để múa được làm từ những cây tre, biểu tượng cho mùa măng mọc, muốn măng mọc thì phải cầu cho mưa xuống. Hơn nữa, trong múa sạp có sạp cái, sạp con, có nam, có nữ tham gia múa đã hội tụ các yếu tố âm - dương và sự sinh sôi nảy nở đại diện cho Lễ cầu mưa.
Ngày nay, múa sạp không chỉ tổ chức trong Lễ cầu mưa mà còn thực hành trong Lễ cầu mùa, Lễ cúng bản hoặc các ngày vui của bản, trong các lễ hội, ngày hội của tỉnh, của địa phương tổ chức. Múa sạp trong lễ cầu mùa hay thời gian hạn hán cũng để cầu mưa cho cây lúa đơm bông, kết hạt. Khi các cô gái đưa bước nhảy sạp, một người già có uy tín trong bản sẽ đi té nước vào tất cả mọi người, vừa té vừa cầu trời cho mưa xuống.
Để múa sạp, cần chuẩn bị 2 cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre nhỏ hay nứa để tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập sàn và một tốp múa, mỗi tốp có đội hình là những đôi trai gái. Đối với tốp đập sàn, mỗi đôi trai gái ngồi hai đầu một cặp sạp con rồi gõ, cứ ba lần gõ sạp con lên sạp cái thì một lần gõ hai sạp con vào nhau tạo ra âm thanh, tiết tấu cho múa. Đối với tốp múa, lần lượt từng cặp trai gái nhảy vào dàn sạp, có khi người múa chỉ là nữ, họ nắm tay nhau để múa. Động tác khi lướt nhẹ nhàng, uyển chuyển, lúc dồn dập. Đội hình biến đổi ngang, dọc, chéo, tròn tất cả đều diễn ra trên dàn sạp nhưng vẫn chú ý đúng nhịp và hai chân không bị kẹp khi hai sạp con chập vào nhau.
Múa Ong eo - múa lắc eo (Tẹ cưn viết guông)
Thường diễn ra vào các dịp lễ tết, hội hè, mừng cơm mới hay khi kết thúc mùa vụ. Múa Ong eo của người Khơ mú là điệu múa dành cho nữ giới với động tác chủ yếu là lắc hông tại chỗ, lắc hông ngồi, lắc hông bước sang ngang, lắc hông di động, uốn lượn eo, xoay dần xuống rồi xoay dần lên một cách uyển chuyển, nhịp nhàng, mô phỏng các động tác trong lao động của người dân. Điệu múa biểu trưng cho mối cộng cảm giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, đặc biệt là để tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ. Từng nhịp điệu đều liên quan mật thiết với tín ngưỡng cầu mùa và khát vọng về tình yêu đôi lứa.
Múa cá lượn (Tẹ gănr cạ)
Thường được múa trong các dịp lễ hội, ngày vui của gia đình hoặc ngày vui của cộng đồng. Đây là điệu múa xuất phát từ việc người Khơ Mú đi bắt cá, từ những động tác đuôi cá, vây cá chuyển động và sáng tác ra điệu múa, đặt tên là cá lượn. Động tác của múa cá lượn chủ yếu được thể hiện qua việc một tay cầm ống tre, chân nhún, nghiêng mình và dùng tay còn lại đưa lướt mềm mại, nhẹ nhàng từ phía trước dọc theo cơ thể đưa tay ra sau rồi đổi bên với động tác tương tự. Âm thanh, nhịp điệu cho múa cá lượn được tạo ra từ những ống tre. Tay cầm ống tre dỗ xuống đất 03 nhịp cho tay kia thể hiện động tác cá lượn.
Múa đuổi chim
Là điệu múa có sự kết hợp giữa nam và nữ, thường được thực hành trong Lễ cầu mùa. Nam và nữ múa xen kẽ, đi theo vòng tròn, chân phải làm trụ, chân trái đưa thẳng về phía trước, tiếp đó chân phải nhảy lên 03 bước kết hợp với 02 bàn tay úp vào nhau, lấy cổ tay làm trụ, đầu ngón tay đặt ngược chiều nhau, xòe hình cánh quạt đặt ở phía trước - ngang đầu người múa. Khi chân phải nhảy lên thì tay phải hướng về phía trước. Ngược lại, khi chân trái làm trụ nhảy lên thì chân phải đưa thẳng về phía trước, tay ở trên cũng xoay chuyển sang tay trái hướng về phía trước. Âm nhạc hỗ trợ cho điệu múa này là các nhịp trống, chiêng, mỗi động tác múa được thể hiện trong 03 nhịp rồi chuyển động tác hoặc đổi bên. Múa đuổi chim thể hiện mong muốn ngăn chặn chim muông và các con vật khác để bảo vệ mùa màng.
Múa vòng (Tẹ kưn vong do)
Đây là điệu múa tương đối quen thuộc của rất nhiều dân tộc vùng Tây Bắc, đặc biệt tiêu biểu đối với người Thái. Tuy nhiên, người Khơ Mú cũng coi múa vòng (tức xòe vòng theo tiếng Thái) là một điệu múa truyền thống của dân tộc mình. Múa vòng (Tẹ kưn vong do) được diễn ra trên một khoảng sân rộng, mọi người nắm tay nhau cùng bước theo nhịp xòe, cùng xoay một chiều theo nhịp trống, chiêng. Múa vòng thường di chuyển theo chiều kim đồng hồ - từ trái qua phải. Động tác của múa vòng bắt đầu từ chân trái bước chéo lên, chân phải bước theo, tay đưa lên cao rồi nhún. Nhịp tiếp theo là chân phải bước xuống, chân trái rút về, tay hạ xuống thấp rồi nhún. Múa vòng thể hiện tình đoàn kết, tính cộng đồng cao bởi không phân biệt tuổi tác, giới tính. Niềm vui và hạnh phúc của cộng đồng như được thăng hoa khi tham gia múa vòng.
Múa của người Khơ Mú hiện đang được thực hành trong các lễ hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Khơ Mú và cả trong nghệ thuật múa chuyên nghiệp. Nó thể hiện bản sắc văn hóa tộc người, chứa đựng tri thức dân gian của cộng đồng về ý nghĩa, giá trị của các điệu múa; góp phần bảo tồn lễ hội truyền thống, tập quán xã hội và tín ngưỡng, trang phục truyền thống của người Khơ Mú. Các điệu múa thể hiện khát vọng về tình yêu đôi lứa, cầu cho mưa thuận gió hòa, cuộc sống no ấm, mùa màng bội thu. Điệu múa, âm nhạc, đạo cụ phản ánh sự sáng tạo và tri thức của người Khơ Mú; khơi nguồn cảm hứng để sáng tạo ra những tác phẩm, công trình nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật có giá trị. Thực hành, truyền dạy các điệu múa còn thể hiện tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng cao, là nơi khơi nguồn cho tình yêu đôi lứa. Múa của người Khơ Mú góp phần tăng cường giao lưu văn hoá giữa các vùng miền, các quốc gia, có thể khai thác, phát huy giá trị để phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.
Với giá trị tiêu biểu, Múa của người Khơ Mú được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 828/QĐ-BVHTTDL ngày 09/3/2021./.
Dương Anh
(Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa)