Ngày 29 tháng 3 năm 2025
Liên kết website

Chùa Bối Khê, Thành phố Hà Nội

Chùa Bối Khê có tên chữ là “Đại Bi tự” (còn được gọi là chùa Bối, chùa Hai chuông), là ngôi già lam cổ tự, được khởi dựng từ thời Trần trên bờ Đỗ Động giang, thuộc thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.

Chùa thờ “Tiền Phật, hậu Thánh” (giống như Chùa Thầy - huyện Quốc Oai - Hà Nội; Chùa Keo - Thái Bình…), phía trước là nơi thờ Phật, phía sau là nơi thờ đức Thánh Bối Nguyễn Bình An - là người làng Bối Khê, xuất gia đầu Phật từ nhỏ. Sau lên Chùa Trăm Gian trên Tiên Lữ (xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ) tu trì và đắc đạo ở đó).

1. Chùa Bối Khê kết cấu theo kiểu “nội công, ngoại quốc” quay theo hướng Tây bao gồm các hạng mục: Đền Đức Ông, vườn tháp, Ngũ môn quan, cầu gạch, tam quan, nhà bia - sắp lễ, chùa Phật (tiền đường, thiêu hương, thượng điện, tả - hữu hành lang), điện Thánh (đại bái, ống muống, hậu cung), nhà Tổ - nhà Mẫu và nhà khách. Chùa còn giữ được khá nhiều dấu tích ngày khởi dựng, lưu giữ được bệ đá hoa sen thời Trần, chim thần Garuda tạc bằng gỗ ở đầu đao thượng điện, chân đèn đá, tượng và gạch thời Mạc, tượng thời Lê có giá trị nghệ thuật cao.

- Đền Đức Ông có quy mô nhỏ, quay theo hướng Tây, nằm ngang cùng hàng với vườn tháp Phật, xây bằng chất liệu nề ngõa, lợp ngói ri.

- Tháp Phật: Các tháp này có niên đại dàn trải vào thời Nguyễn với các tầng tháp khác nhau. Hiện vườn tháp còn tồn tại 5 tháp.

- Ngũ môn quan: Từ con đường lát đá tại sân ngoài, theo trục chính đạo là tới Ngũ môn quan, xây bằng gạch gồm năm cổng. Cổng chính xây hai tầng tám mái, bốn cổng phụ đăng đối ở hai bên. Tại bốn góc tầng một xây bốn trụ lớn cao, xây tường nối tạo khung hai bên. Phía trong xây vòm cuốn, vừa tạo thế vững chắc cho cổng, vừa kết hợp với trụ và tường để tạo mặt bằng xây tầng hai.

Tầng hai thu hẹp hơn, xây tường bổ trụ và mở ba cổng vòm cuốn nhỏ. Ở độ cao trên 2m, tạo bốn mái giả ngói ống, có bốn góc đao cong. Phần trên tạo tầng nóc mái giả ngói ống, có hai đầu kìm đắp hình rồng và bốn góc đao cong.

Tại hạng mục này là các đầu kìm, đầu đao và ở phần cổ diêm và phía bên dưới mái được trang trí hình tượng tứ linh, tứ quý, đại tự và các đôi câu đối chữ Hán. Tại phần lan can đắp hình chữ triện và các đề tài mỹ thuật gắn sứ men lam.

- Cầu gạch: nằm phía sau Ngũ môn quan, là cây cầu nhỏ vắt qua con ngòi nhỏ (dấu tích của Đỗ Động giang xưa kia). Cầu xây uốn cong có ba nhịp nhỏ, xây bằng gạch chỉ, phía bên trên là bờ dải, phía dưới là lan can.

- Tam quan: nằm phía sau cầu gạch, phía trước là hai phiến đá xanh, tương truyền là dấu vết bước chân của đức Thánh Bối. Bộ khung Tam quan làm bằng gỗ, có niên đại khởi dựng từ thời Lê, thành phần chính tạo nên các vì là hệ thống cột, câu đầu, rường, trụ trốn, xà nách, kẻ. Kết cấu bộ vì hạng mục mục này gồm bốn cột cái và các cột quân. Do kết cấu theo kiểu một gian hai chái nên có tổng cộng bốn cột cái và mười hai cột quân, phân đều về các bên và góc.

Bộ khung tam quan được tạo dựng bởi sự liên kết theo chiều dọc giữa hai vì bằng các xà dọc (xà đai) và xà nóc. Các xà dọc này được dựng để tạo sàn tầng trên. Xà đai ăn mộng ở gần đầu các cột quân. Các cột trốn có tác dụng như các cột quân ở tầng dưới. Các cột trốn bên trên có xà nách liên kết với cột cái qua kẻ xó, ngoài cùng là các đầu bẩy đỡ góc mái đao cong.

- Sân chùa: Có một sập đá lớn đặt ở giữa sân, cách mép tiền đường 6,35m. Sập có dạng khối hộp chữ nhật, mặt phẳng, chân dạng quỳ dạ cá, xung quanh thành sập chạm khắc hình rồng chầu đuôi xoắn, rồng mặt hổ phù, hoa sen... Sập là nơi đặt kiệu Đức Thánh Bối khi tiến hành các nghi lễ.

- Chùa Phật: bao gồm các hạng mục tiền đường, thiêu hương, thượng điện tạo thành kết cấu kiến trúc kiểu chữ công; hai hành lang chạy hai bên, phía sau là hậu đường tạo thành kết cấu kiểu “Nội công ngoại quốc”. Tiền đường có bảy gian: một gian giữa, hai gian hai bên, hai gian hồi, hai gian chái. Thiêu hương có hai gian. Thượng Điện có một gian hai chái. Toàn bộ khung chùa Phật đều được làm bằng gỗ, liên kết với nhau qua nhiều bộ vì kèo, xà và cột.

* Kết cấu các bộ vì:

Việc tạo tác các bộ vì kiến trúc tại đây dựa trên cơ sở liên kết giữa các cột cái nối với nhau qua các câu đầu. Ở tiền đường và thiêu hương, các câu đầu đều ăn mộng xẻ ở đầu cột. Ở thượng điện thì câu đầu ăn mộng qua đấu vuông. Các câu đầu tạo dáng hơi cong ở đoạn giữa, bụng hơi thót lên. Đỡ dưới các câu đầu là đầu dư. Cột cái và cột quân liên kết bằng xà nách tỳ lên đầu bẩy hiên như ở tam quan, được thực hiện bằng ba loại liên kết: Chồng rường giá chiêng, thượng rường hạ kẻ và kẻ.

+ Bộ mái tiền đường và thượng điện được tạo dáng cong ở bốn đầu góc mái với các tàu đao, tấm ván lớn, dày và ăn mộng vào đầu bẩy kế tiếp chạy dài qua diềm mái. Các lá mái là điểm tựa để đỡ ngói của bộ mái và nó cũng lượn theo chiều cong của tàu đao và vút dần lên ở cuối đao mái.

+ Trang trí kiến trúc

Trang trí phần nóc tại tiền đường rất ít, chỉ ở hai bên câu đầu là có các mảng chạm lá cách điệu, to bản, có soi một số đường chìm uốn lượn. Các đấu kê thượng lương ở hai câu đầu chạm hình chữ thọ vuông. Ở phần hiên tiền đường, trên các bẩy hiên, cốn hiên, xà nách và nóc cửa chạm tứ linh, tứ quý và hoạt cảnh thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh.

* Trang trí trên thượng điện chủ yếu trên bộ giá chiêng, đầu xà phía Tây, một vài ván nong và hai bức cốn nách. Hai bức cốn ở phần giá chiêng chạm lá đề với diềm lá hình lửa to, lượn đều xung quanh, các mặt trong của lá đề đều chạm đôi rồng chầu, đầu hướng vào giữa, thân rồng mập, uốn ra hai bên rồi chụm lại ở đỉnh lá. Đầu rồng có mào lửa, lườn ngắn, sừng hai nhánh. Chính giữa lá đề có một lá đề nhỏ đặt trên một bông sen. Các mặt ngoài của hai lá đề chạm một đôi phượng. Các hình phượng đều có dáng thon thả, mỏ nhỏ quặp, bờm có phần dải ngắn lượn về phía sau, đuôi chẻ thành hai, ba dải lượn cong, chân nhỏ, hai cánh xòe rộng và trong tư thế bay về hai phía, đầu ngoảnh vào trong.

Tại các bẩy hiên và ván nong đều thống nhất một đề tài đầu rồng đỡ đấu. Tại góc đao bên phải có tạo hình chim thần Garuda. Chim đang ở tư thế chân khuỳnh gập, hai tay gập khuỷu đưa lên đầu trong tư thế đỡ đầu đao, ngực ưỡn, bụng căng tròn, hai cánh dang rộng.

2. Điện Thánh

Được bố trí ở sau chùa Phật, là nơi thờ đức Thánh Bối. Điện Thánh hội đủ các thành phần của một ngôi đền, đình ở Bắc Bộ. Mặt bằng chung điện Thánh có hình chữ Công, được kết hợp từ ba bộ phận kiến trúc: Đại bái (chức năng nhà tiền tế), ống muống và hậu cung. Nền đại bái và ống muống cùng độ cao, nối liền với hai hành lang chùa Phật. Nền hậu cung cao hơn hẳn đại bái và ống muống (24cm). Các bộ phận kiến trúc đều có bậc thềm lên xuống bằng đá xanh. Bộ vì kèo, liên kết khung, bộ mái tương tự như ở khu chùa Phật, hậu cung có hệ thống các cụm đấu củng liên kết khác biệt hơn.

- Bộ mái kiến trúc điện Thánh về cơ bản tương tự như ở chùa Phật. Hai mái chính của đại bái mỗi bên có tám đòn tay, hai mái bên có sáu đòn tay. Phần mái của ống muống mỗi bên có bốn đòn tay gần vuông. Phần mái hậu cung là loại hai tầng tám mái. Bốn mái dưới trải đều về bốn hướng, mỗi mái có bốn đòn tay, tiết diện hình chữ nhật. Bốn mái trên chia thành hai mái chính và hai mái hồi. Khác với tòa đại bái và ống muống, dưới mái trên của hậu cung được bịt kín bởi hệ thống cửa ván. Ngói lợp, hình thức đắp bờ nóc, bờ dải của điện Thánh đều tương tự như ở các hạng mục bên trên.

- Đại bái được mở toàn bộ phía trước, không có cửa. Các mặt còn lại có tường gạch trát vữa. Tường chỉ có tác dụng bao che, không có tác dụng chịu lực. Hệ thống tường này kéo dài sang hai bên ống muống và tiến sát vào hậu cung.

- Toàn bộ các bộ vì đại bái và ống muống được làm kiểu chồng rường giá chiêng, liên kết này có thể coi là một biến thể so với các bộ vì ở tiền đường. Kiểu giá chiêng ở đây đã thay đổi hình thức, không có cột giá chiêng, hai bên vì chỉ là các con rường ngắn chồng lên nhau qua đấu kê hình vuông thót đáy

- Vì ngoài của ống muống, áp với nhà đại bái được làm kiểu chồng rường đấu củng. Có thể coi là biến thể của chồng rường giá chiêng hết sức độc đáo. Trên lưng xà thượng của đại bái, có chức năng như câu đầu, là con rường thứ nhất, rồi đến con rường thứ hai; hai đầu con rường này ăn mộng xẻ qua hai đấu kê, cuối cùng là con rường thứ ba. Trên lưng rường thứ ba có một đấu kê thượng lương lớn để đỡ thượng lương tòa ống muống.

Hậu cung là bộ phận kiến trúc đáng chú ý nhất trong toàn bộ phần điện Thánh, có kiến trúc một gian hai chái, hai tầng tám mái. Kết cấu bộ vì và các cụm đấu củng rất độc đáo. Đó là xử lý các xà đỡ dọc có trang trí đầu rồng và mây cuộn; đặc biệt các cụm đấu củng ở các tầng trên mặt khung lại được sử dụng để đội hình trang trí linh vật. Mỗi một đấu củng được bắt đầu bằng một đấu vuông lớn thót đáy. Trên chiếc đấu này có một xà dọc ăn mộng qua đấu dài, đầu xà phía trong thẳng, đầu xà phía ngoài vuốt xuôi xuống. Trên chiếc xà này đặt một thanh xà khác dáng tương tự như chiếc xà nói trên nhưng dài hơn, tiết diện vuông. Trên chiếc xà này lại đặt tiếp ba đấu củng con và trên cùng là một xà lớn nhất. Với thanh xà này, ở vào vị trí giữa của câu đầu hay xà, đầu trong của nó chạm đầu rồng, ở ngoài chạm mây cuộn. Ở các vị trí khác không có chạm khắc.

Hậu cung được khép kín bới ván bưng ở mặt trước và ván đố lụa ở mặt sau và hai mặt bên. Từ xà hạ trở lên, các ván gỗ bịt kín giữa các cụm đấu củng. Khoảng trống giữa các cột quân góc với nhau được gài các ván gỗ lớn có chạm khắc. Phần còn lại là ván đố lụa được bào soi vỏ măng che kín các mép ván. Toàn bộ khoảng trống giữa vẫn là các ván khép các cột quân là khung cửa dài, trang trí các họa tiết trang trí.

Lễ hội thường niên tại chùa Bối Khê diễn ra vào đầu mùa Xuân, từ ngày 10 đến ngày 12 tháng Giêng (Âm lịch). Trong lễ hội có rước lễ và hội thi đốt pháo đầu Xuân trong nghi lễ đánh trống thiêng. Ngoài hội, ở chùa Bối Khê còn có những nghi lễ cầu mưa được tổ chức khi trời nắng mãi không mưa - đại hạn.

Với những giá trị đặc biệt nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Bối Khê là di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 152/QĐ-TTg, ngày 17/01/2025.

Tuyết Chinh

(Theo Hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa)

Liên kết website