Ngày 17 tháng 10 năm 2025
Liên kết website

Chùa Cổ Lễ

Chùa Cổ Lễ (còn gọi là Thần Quang tự), thuộc xã Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Cổ Lễ, tỉnh Ninh Bình), có lịch sử hình thành và phát triển từ thời Lý.

Chùa Cổ Lễ bao gồm nhiều hạng mục công trình kiến trúc, trải rộng theo hướng Đông - Tây. Mở đầu cụm kiến trúc chủ đạo là Tháp Cửu phẩm liên hoa. Từ Tháp Cửu phẩm liên hoa qua cây cầu cuốn bắc qua hồ nước là tới Tam quan chùa. Tam quan qua một khoảng sân rộng lát gạch đỏ là vào Hội quán Phật giáo (giữa), Linh Quang tự - đền thờ Đức Thánh Trần cùng hai vị đại khoa thời Trần là Trạng nguyên Đào Sư Tích và Tiến sĩ Đào Toàn Phú (bên trái) và Phủ Mẫu (bên phải). Phía sau hai bên tả, hữu Hội quán là Tả sơn kiều (cầu núi Tả) và Hữu sơn kiều (cầu núi Hữu) bắc qua hồ nước, dẫn vào khoảng sân nhỏ lát gạch chỉ là đến chùa Chính. Nối liền với chùa Chính là nhà Tổ, nhà Giảng đường (Pháp đường). Hai bên chùa Chính là hai dãy hành lang tả, hữu (mỗi dãy 25 gian), chạy song song, kéo dài từ vị trí tiền đường chùa tới cuối sân, qua nhà Tổ, nhà khách (giảng đường). Từ nhà khách qua khoảng sân ngắn là tới Phương đình, gác chuông "Kim Chung Bảo Các". Nằm ở cuối khuôn viên di tích là khu vườn tháp mộ của Hòa thượng Phạm Quang Tuyên và Hòa thượng Thích Thế Long.

Tháp Cửu phẩm liên hoa: có hình bát giác, xây giữa hồ lớn, với kích thước 22,85m x 18,35m. Nền tháp là một con rùa đặt giữa hồ hình vuông, đầu rùa hướng vào trong chùa, đuôi hướng ra phía ngoài. Dáng vóc của rùa sinh động, chắc khỏe. Tháp cao 26,30m, gồm 11 tầng: 01 tầng đế, 09 tầng hoa sen và 01 tầng đỉnh. Tầng đế 08 cạnh đặt đúng theo 08 múi mai rùa, được chia thành 03 tầng nhỏ hơn. Tầng dưới cùng có mái lợp giả ngói ống, tường trổ lỗ vuông. Tầng giữa có mái tương tự nhưng thấp hơn, các mặt không trổ cửa, trong đó 04 mặt đắp nổi hình kỳ lân và phượng. Tầng trên cùng đắp giả lan can. Tiếp theo là 09 tầng hoa sen cách điệu cùng một mô típ, chỉ khác nhau về độ lớn bé. Ở giữa, các tầng đều có hình hoa sen cánh mập đắp nổi và trổ cửa tò vò giả, kích thước các tầng thu nhỏ dần từ thấp lên cao (03 tầng dưới cùng cao 02m, 03 tầng giữa cao 1,80m, 03 tầng trên trên cùng cao 1,60m). Đỉnh tháp đắp một nụ sen to, có kích thước cân đối giữa đế và đỉnh tháp.

Trụ chịu lực của tháp là cột tròn ở chính giữa, thiết kế theo thế thượng thu hạ thách (chân cột to thu nhỏ dần lên đỉnh cột). Vòng quanh thân cột là 64 bậc thang từ chân lên tới đỉnh tháp, nơi có đặt tượng A Di Đà bằng đồng đang ngồi thiền định.

Cầu cuốn: Theo tư liệu lịch sử ghi chép tại chùa, cầu được xây dựng năm 1921 và trải qua hai lần trùng tu vào năm 1954, 2003, dài 10,60m, rộng 4m, cuốn thành 03 vòm nằm vắt ngang qua hồ Chu Tước (còn có tên gọi là hồ A Nốc). Hồ nước này bao quanh nhà Hội quán và chùa Chính, thông với sông Cổ Lễ. Trong lễ hội, hồ là nơi neo đậu thuyền chải của các trai bơi vào lễ Thánh trước khi xuất phát.

Tam quan: gồm 04 cột trụ vuông, tạo thành 03 cửa ra vào, trong đạo Phật thường gọi là trung quan, không quan và giả quan.

Trung quan (cửa giữa) rộng 15,16m, cấu tạo bởi 02 cột đồng trụ cao 7,35m, cạnh rộng 0,72m. Hai cột đồng trụ này làm bằng gạch, mật mía, giấy bản, thiết kế gồm 3 phần: Đỉnh trụ đắp rồng cuộn tạo thành hình lá đề - biểu tượng cho trí tuệ và sự giác ngộ trong đạo Phật. Thân trụ gồm hai khối hình hộp chữ nhật và hình vuông chồng lên nhau, xung quanh hình hộp chữ nhật đắp gờ chỉ giữa nhấn câu đối chữ Hán. Đế trụ đắp cao 1,20m, hình cổ bồng, tại 04 góc chân đế đắp trang trí hình lá lật.

Không quan được thiết kế giống kiểu nghi môn, gồm 01 cổng giả và 02 cổng phụ: cổng giả được cấu tạo bởi 02 cột trụ vuông cao 2,60m, cạnh rộng 0,33m, nối giữa 02 cột là bức bình phong rộng 2,40m, tạo hình cuốn thư. Cách cổng giả mỗi bên 3,82m là 02 cổng phụ rộng 1,66m, cao 4,50m. Cổng phụ được xây dựng theo kiểu cổ đẳng 02 tầng 08 mái với các đao góc uốn cong mềm mại.

Giả quan thiết kế tương tự không quan, tại cổ đẳng nối giữa mái tầng trên và tầng dưới cổng phụ nhấn 02 chữ Hán: “Minh nguyệt”, “Thanh phong”.

Hội quán Phật giáo (còn gọi là chùa Trình): dựng năm 1936 trong phong trào chấn hưng Phật giáo, là nơi diễn đàn thuyết pháp và phục vụ trong các ngày đại lễ hàng năm. Hội quán có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh, gồm 02 tòa: Tiền đường và Hậu cung.

Tòa tiền đường dài 13,50m, rộng 10m, phía trước xây bậc tam cấp. Tại bậc tam cấp của khoang cửa giữa tòa Tiền đường có đắp 02 con rồng đối xứng nhau, thân rồng uốn lượn, đầu hướng ra ngoài, 02 khoang cửa bên đắp 02 con nghê trong tư thế chầu vào trong Hội quán.

Hậu cung nhà Hội quán dài 9,90m, rộng 4,50m, xây nối liền với tòa Tiền đường. Mái Hậu cung thiết kế theo cổ đẳng 03 tầng 12 mái, lợp ngói ống. Đường bờ nóc đắp họa tiết rồng chầu, mái hồi 02 bên đắp nổi mặt hồ phù. Phần cổ đẳng nối giữa tầng mái trên cùng với tầng mái thứ hai có đắp nổi 4 chữ Hán “Hội quán Phật giáo”. Toàn bộ các hình rồng, hổ phù trang trí trên bờ nóc, hồi mái đều được gắn bằng mảnh, chôn bát, đĩa sành sứ màu xanh lục, màu trắng.

Đền thờ Đức Thánh Trần và Thành hoàng (Linh Quang từ)

Đền Thánh có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu tiền Nhất hậu Đinh, gồm 03 tòa: Tiền đường, Trung đường và Hậu cung.

Phía trước Tiền đường là một lớp hiên dài 7,70m, rộng 1,83m. Mái hiên cuốn vòm, xung quanh xây lan can đắp trang trí triện tàu lá dắt. Bộ cửa Tiền đường theo kiểu bức bàn, bằng gỗ lim, chạy suốt 03 gian công trình.

Tòa Trung đường dài 7,70m, rộng 5,50m được ngăn cách với Tiền đường bởi bức tường trổ 03 khoang cửa cuốn vòm.

Hậu cung xây xoay dọc giao mái với toà Trung đường tạo thành mặt bằng kiến trúc chữ Đinh truyền thống, thiết kế theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái, gắn ngói nam. Tại đây, đặt ngai, bài vị thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và hai cha con Tiến sĩ Đào Toàn Phú (Bân) và Trạng nguyên Đào Sư Tích.

Phủ Mẫu: là công trình mới được phục dựng, bố cục mặt bằng kiến trúc theo kiểu chữ Tam, gồm: Tiền đường 03 gian, kích thước 6,74m x 3,12m thờ Tứ vị chầu bà; Trung đường 03 gian, kích thước 6,74m x 4,30m thờ Ngũ vị tôn ông, Tam vị Hoàng tử và Hậu cung 03 gian kích thước 6,40m x 4,43m thờ Tam tòa thánh Mẫu. Bộ khung công trình được thiết kế tương tự như Đền Thánh.

Chùa Chính: là công trình mang giá trị nghệ thuật độc đáo kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền dân tộc với kiến trúc Gô tích của Thánh đường Thiên chúa giáo, hiếm có tại Việt Nam.

Chùa chính có tới 09 tòa khác nhau với nhiều tòa ngang, dãy dọc liên kết thành một khối, kết cấu kiểu khung cột, vòm cuốn, xây dựng bằng gạch, vôi, cát, mật mía. Toàn bộ thành phần kiến trúc cơ bản của chùa gồm: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, đều nằm trong một mặt bằng hình chữ nhật dài 29,30m, rộng 13,90m được sắp xếp theo trình tự như sau:

- Tiền đường gồm 05 gian, kích thước đăng đối: gian giữa rộng 3,50m, 02 gian bên mỗi ban rộng 2,50m, 02 gian giáp đốc mỗi gian rộng 3,20m.

Kết cấu bộ khung Tiền đường theo kiểu cột trụ, mái cuốn vòm. Nâng đỡ vòm mái ngoài hệ thống tường chịu lực dày 0,85m còn có 8 cột hình chữ nhật, kích thước 1,25m x 0,84m (cột bên ngoài) và 1,08m x 0,85m (cột bên trong). Tất cả các cột này được liên kết với nhau tạo thành một vòm mái có chiều cao từ nền lên đỉnh mái là 9,60m. Bên trong vòm mái được sơn trắng, trên nền vẽ trang trí nhiều họa tiết phong phú, đa dạng, nhìn như những bức họa rực rỡ màu sắc.

- Thiêu hương kích thước nhỏ hẹp hơn Tiền đường, gồm 03 gian, là nơi giành cho các nhà sư ngồi tụng kinh, lễ Phật.

Kết cấu bộ khung Thiêu hương giống với Tiền đường, thiết kế theo kiểu tường xây trụ, cuốn vòm mái. Nâng đỡ vòm mái là 02 cột trụ tròn, đường kính rộng 01m và hệ thống cột trụ bán tường. Tất cả các cột này cũng được liên kết với nhau tạo thành một vòm mái, trên dán ngói mũi hài.

- Thượng điện (hay còn gọi là Chính điện) là hạng mục kiến trúc trung tâm cũng là điểm nhấn của chùa Chính, được thiết kế phân tầng, giật cấp, chia cung theo độ cao từng nền công trình:

+ Tầng 1: tính từ nền tiền đường lên mặt nền cung Thánh tổ, cao 5,94m.

+ Tầng 2: tính từ nền cung Thánh tổ lên, nơi đặt tượng Phật Thích Ca, cao 3m và từ nền này lên đỉnh vòm mái cao 13,25m. Tổng chiều cao từ nền tầng 1 lên tới đỉnh cao nhất của tòa thượng điện là 22,19m.

- Cung Địa Tạng nằm phía sau tòa thượng điện có kích thước dài 13,90m, rộng 4,20m, vẫn theo lối thiết kế kiểu cuốn vòm. Nâng đỡ mái vòm là hệ thống tường gạch bao quanh. Trên tường gạch phía sau tượng Địa tạng và hai bên tường hồi có gắn 82 tấm bia đá gồm cả bia khắc chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Tại đây, xây bệ thờ đặt tượng Địa tạng ở chính giữa, hai bên hồi đặt tượng thờ Thập điện diêm vương.

Nhà tổ, Nhà khách (Giảng đường): có bố cục mặt bằng theo kiểu chữ nhất. Nhà Tổ chia thành 02 gian là không gian thờ tự Hòa tượng Phạm Quang Tuyên, người có công lớn kiến tạo nên công trình kiến trúc chùa Cổ Lễ; nhà khách chia thành 04 gian, là nơi tổ chức các sinh hoạt tôn giáo của các tăng ni, tín đồ phật tử…

Phương đình: có diện tích rộng 66m2, kết cấu theo kiểu 02 tầng, 08 mái, mái lợp ngói nam, đầu đao cong trang trí họa tiết lá lật, vân xoắn, bờ nóc đắp đôi rồng hóa chầu hoa sen. Phần cổ đẳng nối mái tầng trên với tầng dưới tạo thành các ô cửa lắp trấn song con tiện.

Bộ khung được tạo bởi sự liên kết của 04 bộ vì gỗ, thiết kế theo kiểu chồng rường, bẩy kẻ. Nâng đỡ các bộ vì là 04 hàng cột. Ngoài hệ thống cột cái, cột quân, tại 4 góc nối tầng trên và tầng dưới có 04 trụ lửng, đầu trên khớp với xà thượng đỡ mái công trình, đầu dưới tạo đấu sen đặt trên lưng con nghê gối lên xà nách. Bốn mặt phương đình để trống, xung quanh dựng lan can đá cao 0,70m, chính giữa mặt trước phương đình tạo lối lên xuống bó vỉa bằng gạch đỏ. Tại đây xây bệ đá đặt tượng thờ tự các vị sư Tổ, sư trụ trì qua các thời kỳ.

Gác chuông “Kim chung bảo các”: cấu trúc theo hình vuông 04 cạnh, 03 tầng, kích cỡ từng tầng thu nhỏ dần, chiều cao từ nền lên đỉnh gác chuông là 13m, tổng diện tích 134m2. Mái hình chóp, tứ diện cân, lợp ngói vẩy cá. Bốn góc đao cong vút, trên đắp hình rồng trong tư thế ngẩng đầu cao. Đỉnh gác chuông đắp rồng chầu Pháp luân - một biểu tượng tôn kính đạo pháp nhà Phật.

Gác chuông gồm 3 tầng: Tầng một treo Đại hồng chung do Hòa thượng, trụ trì Thích Tâm Vượng đúc theo đúng phiên bản quả chuông do cố trụ trì Thích Thế Long đúc năm 1936. Tầng hai treo một quả chuông đồng cao 4,2m, rộng 2,3m, nặng 9.000 kg, được đúc vào năm 2003. Tầng ba treo quả chuông đồng đúc từ thời Lê, niên hiệu Cảnh Thịnh 7 (1799), nặng 300kg.

Hàng năm, tại chùa Cổ Lễ diễn ra nhiều ngày lễ liên quan đến Phật giáo, Đức Thánh tổ, các vị Thần làng, hậu Thần được thờ phụng tại đây.

Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ, xã Cổ Lễ, tỉnh Ninh Bình được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 1959/QĐ-TTg ngày 11/9/2025)./.

Tuyết Chinh

(Theo hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa)

Liên kết website