Chùa Diên Phúc
Chùa Diên Phúc (còn gọi là chùa thôn Thượng), là một ngôi chùa cổ thờ Phật, thuộc xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức (nay là xã Hoài Đức, Thành phố Hà Nội).
Năm 1945 chùa là một trong những điểm hoạt động của cách mạng địa phương, thường xuyên có các lớp bình dân học vụ để diệt giặc dốt, dân quân, du kích cũng lấy chùa là nơi tạp trung canh gác bảo vệ xóm làng. Mặc dù địa thể khó hoạt động, gần bốt Phùng nhưng nhà chùa sẵn sàng giúp đỡ, che dấu cán bộ suốt từ nă, 1947 đến năm 1953. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhà chùa thường xuyên là nơi đóng quân của bộ đội phòng không, cơ giới, tên lửa, xung quanh có nhiều trận địa của bộ đội để bảo vệ Hà Nội.
Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại thì chùa được xây dựng cách đây gần 1.000 năm, khởi thủy chỉ có tòa Thượng điện ngày nay. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, mặt bằng kiến trúc hình chữ Công, gồm có Tam quan, Tiền đường, nhà Cầu, Thượng điện, nhà Mẫu.
Từ thềm của gian giữa Tiền đường chạy ra phía sân là một đôi chồn đá dài khoảng 01m, trong dáng điệu khỏe khoắn, mập mạp, mồm ngậm ngọc, đuôi dài hình sóng nước. Ở giữa đôi chồn là một cây hương đá, chỉ còn lại phần chân với diện tích 40 x 40cm.
Bước lên bậc thềm cao khoảng 50cm, qua hiên nhỏ chừng 80cm là vào Tiền đường. Đứng trên thềm, đầu người cao bình thường có thể chạm tới đầu bẩy, cách thức này phù hợp với kiến trúc cổ từ thế kỷ XVII trở về trước. Các đầu bầy được trang trí vân mây, lá cách điệu.
Tiền đường làm đơn giản với 07 gian tường hồi bít đốc, gồm 04 mái, lợp ngói vảy hến, bờ nóc thẳng, các đầu đao uốn cong vừa phải. Bộ vì nóc của Tiền đường làm theo kiểu vì giá chiêng chồng rường cụt hai bên, chủ yếu là bào trơn đóng bén, chỉ trang trí chút ít vân xoắn. Ở bộ vì bên phải có một mảng chạm miêu tả cảnh hai người đang ở tư thế vật bắt chân nhau, vô cùng tự nhiên.
Từ gian giữa của Tiền đường chạy thẳng vào phía trong làm thành tòa nhà Cầu, có kết cấu tương tự Tiền đường. Gồm 03 gian 04 hàng chân cột và hệ thống cột gạch lửng. Vì nóc cũng làm theo kiểu giá chiêng chồng rường, chủ yếu bào trơn đóng bén. Hai bên hồi của tòa nhà có xây bệ gạch đặt tượng Thập điện Diêm vương. Phía bên trái nhà Cầu, trổ một cửa nhỏ đi ra sân xuống nhà Mẫu.
Qua 04 bậc gạch xây nhỏ là tới Thượng điện. Tòa Thượng điện cũng có kết cấu bốn mái, các họa tiết trang trí trên nóc và đao mái cũng tương tự như tòa Tiền đường. Đáng chú ý là mái sau Thượng điện đươc lợp bằng loại ngói mũi hài cổ, khác hẳn với ngói ở phía trước. Thượng điện gồm 05 gian, các cột cái được đặt trên 07 chân đá tảng mài chạm đài sen. Bộ vì nóc được làm theo kiểu vì quá giang, có ván bưng tạo khung rỗng hình lá đề, tất cả đều bưng ván, đấu không đặt trực tiếp lên câu đầu mà đặt lửng trên ván bưng. Hai đầu dư chạm rồng thời Mạc.
Nhà Mẫu gồm 05 gian làm theo kiểu chữ Đinh, lợp ngói ta, phần chuôi vồ sau này mới xây dựng để thờ Tam tòa Thánh mẫu, phía ngoài có bệ thờ Tổ Tây Thiên và Tổ của chùa. Nhà Mẫu có kết cấu kiểu vì kèo giá chiêng kết hợp kẻ ngồi, 04 hàng cột trốn, được trang trí đơn giản hình văn chiện và một vài bẩy được chạm rồng.
Liên quan đến kiến trúc của chùa, còn có ngôi quán nằm bên phải, cách chùa không xa. Trước đây bên trái chùa cũng có một quán như vậy nhưng đã bị đổ, nên ngai, bài vị dồn vào quán bên phải. Quán gồm có 02 nếp nhà, nếp sau có 03 gian kết cấu vì kèo đơn giản, nếp trước để trống, nhìn ra một tường xây lửng. Quán thờ Đại đế Đại vương và Quốc vương Tề Thiên Đại thánh. Hiện tại Quán còn nhiều đồ thờ tự và một số sắc phong từ các đời Cảnh Thịnh, Chiêu thống.
Chùa có 03 hệ thống tượng thờ đó là tượng Phật, tượng Mẫu và tượng hậu, trong đó, đa phần là tượng Phật (tổng cộng có gần 60 pho), được bài trí khá chuẩn mực trên Phật điện. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý hiếm, có giá trị cao về nghệ thuật như: 5 hoành phi gỗ với nội dung phong phú, 03 y môn, 03 cửa võng được chạm kỹ với đề tài rồng chầu mặt trời, rồng chầu hoa cúc, 01 quả chuông đồng thời Tây Sơn cao 1,2m, đường kính 0,7m...
Chùa Diên Phúc được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 2009/QĐ ngày 15/11/1991./.
Tuyết Chinh
(Theo hồ sơ tư liệu Cục di sản văn hóa)