Di tích bến Vàm Lũng - đường Hồ Chí Minh trên biển
Bến tiếp nhận vũ khí Vàm Lũng (thuộc ấp Xẻo Mắm, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau), nằm theo rạch Chùm Gộng hướng về trung tâm huyện Ngọc Hiển, được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao xếp hạng di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 3996/QĐ-BVHTTDL ngày 10/11/2010.
Sau Hiệp định Giơ ne vơ, Đế quốc Mỹ xâm lược và thống trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới, mưu đồ xây dựng miền Nam Việt Nam thành một căn cứ quân sự của Mỹ, chia cắt lâu dài nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á và trên thế giới, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa.
Tháng 6/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về lập nên Chính phủ bù nhìn ở miền Nam, phái đoàn quân sự Mỹ được thành lập ở Sài Gòn, đồng thời Mỹ tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự “khẩn cấp” cho chính quyền Ngô Đình Diệm, từ đây bắt đầu thời kỳ chống Mỹ cứu nước của Việt Nam.
Ngày 13/01/1965, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá II họp Hội nghị lần thứ XV mở rộng để xác định đường lối cách mạng miền Nam. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của quân và dân miền Nam là: “Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ vững thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt... tiến lên xây dựng một lực lượng vũ trang lớn mạnh cùng với toàn dân đánh bại quân thù”.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương phân công Trung tướng Trần Văn Trà, Tổng Tham mưu phó trực tiếp phụ trách việc mở tuyến vận tải Bắc Nam trên biển, trong đó xúc tiến việc thành lập đoàn vận tải tiếp tế vũ khí bằng đường biển từ Bắc vào Nam. Tháng 02/1961, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các tỉnh Nam bộ chuẩn bị bến bãi, tổ chức lực lượng tiếp nhận vũ khí chi viện từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP do Trung tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký thành lập Đoàn 759, sau đổi lại là Đoàn 125 - đoàn vận tải quân sự đường biển đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng.
Chấp hành Chỉ thị của Trung ương, Tỉnh uỷ Cà Mau tổ chức tàu thuyền ra Bắc báo cáo tình hình và vận chuyển vũ khí về Cà Mau. Công việc được tiến hành khẩn trương và bí mật. Sau thời gian chuẩn bị mọi việc đã hoàn tất, ngày 01/8/1961 đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ) giao nhiệm vụ và căn dặn tỉ mỉ mọi việc. Chiếc tàu thứ nhất do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy kiêm Bí thư Chi bộ cùng đoàn thủy thủ gồm: Tư Phước, Ngô Văn Tần (Năm Kỷ), Nguyễn Dũng (Sáu Dũng), Bảy Cửa, Trần Văn Đáng (Ba Cụt), Võ Tấn Thành (Ba Thành), Tư Quang (Hai Chiếu) tất cả có 08 người. Tàu xuất phát từ rạch Cá Mòi, Mũi Cà Mau với phương tiện hàng hải thô sơ: Một địa bàn, một cây thước bằng lá dừa nước, một bản đồ Việt Nam in trên bìa tập học sinh. Sau bảy ngày đêm vật lộn với sóng gió, đoàn đã cập bến sông Nhật Lệ (Quảng Bình) vào ngày 07/8/1961, vì bị nghi là biệt kích Sài Gòn nên tàu bị tạm giữ tại đồn công an Vàm Nhật Lệ để thẩm vấn, sau khi xác minh rõ, đoàn được về nhà khách Quảng Bình nghỉ ngơi. Ngày 11/8/1961, đồng chí Lê Duẩn đến thăm đoàn và nghe báo cáo tình hình của Khu uỷ. Mấy hôm sau, Uỷ ban thống nhất Trung ương đưa đoàn về Hà Nội ở tại số nhà 18 Nguyễn Thượng Hiền từ tháng 8/1961 đến tháng 01/1962. Thời gian ở đây đoàn được học tập văn hóa và đi thăm nhiều tỉnh, sau đó Đoàn 125 tiếp nhận và dời chỗ ở về nhà số 06 đường Quang Trung, cùng với các đoàn Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa Vũng Tàu.
Sau khi được nghe báo tình hình chiến trường miền Nam và tình hình ven biển, Trung ương cử đồng chí Trần Văn Trà đảm nhiệm việc nghiên cứu chỉ đạo tổ chức thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và Bác, sớm đưa vũ khí chi viện vào miền Nam. Sau một năm nghỉ ngơi, học tập, đội tàu của đồng chí Bông Văn Dĩa được bố trí quay về trước để tìm bến bãi. Đầu tháng 4/1962, Bộ Quốc Phòng giao nhiệm vụ cho đồng chí Bông Văn Dĩa và đội tàu quay về Cà Mau báo cáo với Khu uỷ Nam bộ về chủ trương của Trung ương Đảng đưa vũ khí vào Nam bộ và đề ra ba phương án tổ chức xây dựng bến bãi để tiếp nhận hàng gồm:
1. Các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Nam Du, Hòn Ông, Hòn Bà, ở vùng biển Tây Nam để xây dựng các hầm cất giấu hàng.
2. Chọn khu vực Hòn Chuối và cửa sông Bảy Háp làm nơi chuyển hàng hoặc thả hàng xuống biển để ngư dân ra đánh cá trà trộn bí mật vớt hàng lên rồi chuyển vào bờ.
3. Các cửa sông khu vực Cà Mau được chọn làm nơi dự phòng nhận chuyển hàng vào, nếu phương án 2 không thực hiện được.
Đêm ngày 10/4/1962 đội tàu của đồng chí Bông Văn Dĩa rời cửa sông Nhật Lệ (Quảng Bình) theo đường biển vào phía Nam. Đến 22 giờ ngày 18/4, tàu cập bến vào Vàm Lũng, Cà Mau an toàn. Được tin đội tàu trở về, Khu uỷ khu 9 cử đồng chí Phan Văn Nhờ (Tư Mau) ra cửa Vàm Lũng đón đoàn về cơ quan Khu uỷ. Sau khi nghe báo cáo tình hình và Chỉ thị của Trung ương về việc mở bến để tiếp nhận vũ khí chuyển vào bằng đường biển, Khu uỷ đồng ý để đồng chí Bông Văn Dĩa ra các đảo kiểm tra nắm tình hình. Sau khi kiểm tra thăm dò các đảo ngoài khơi, đồng chí Bông Văn Dĩa báo cáo với Khu uỷ: Hòn Chuối quá nhỏ, không có chỗ cất giấu hàng; Thổ Chu có nhiều đảo, có chỗ cất giấu hàng nhưng đảo quá xa bờ; Hòn Ông, Hòn Bà do lực lượng Campuchia đóng giữ; Nam Du, Phú Quốc có đông dân đến làm ăn không lợi cho việc cất giấu; còn việc thả hàng xuống biển rồi cử thuyền ra vớt quá mạo hiểm, dễ mất hàng, chỉ còn phương án cho tàu vào các kênh, rạch bí mật giấu hàng và chuyển hàng là thuận lợi. Trong số các kênh, rạch của khu vực này, Vàm Lũng là nơi tiếp nhận hàng thuận lợi nhất, theo đề xuất của tổ khảo sát, Khu uỷ đồng ý chọn các điểm ven biển Cà Mau làm bến tiếp nhận, phải di dân ra khỏi các cửa sông, rạch từ biển vào 05km đến 10km, ổn định vành đai bên ngoài căn cứ, lấy sông Vàm Lũng và Kiến Vàng làm bến tiếp nhận chính, sông Rạch Gốc, sông Bồ Đề cùng với sông Cái Bần và Rạch Già làm bến dự bị. Đồng thời, Khu uỷ cũng quyết định khu vực tổng kho, lấy sông Đường Đào từ cửa Rạch Gốc chạy tới Biện Nhạn, chiều sâu vào đến Cạnh Đền, Chim Đẻ, địa điểm tổng kho này tuy xa các bến chính nhưng tiện đưa vũ khí ra chiến trường qua đường sông Bảy Háp, sông Vàm Đầm, Bàu Sen, Tân Duyệt.
Ngày 11/10/1962, chuyến tàu đầu tiên mang phiên hiệu “Phương Đông I” chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) mở đường vào Nam. Ngày 16/10/1962, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn, sau đó đưa về rạch Chùm Gộng để lên hàng. Đây là chuyến tàu “của đoàn tàu không số” khai thông tuyến vận tải chiến lược trên biển vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) đã đi vào lịch sử là bến đón nhận con tàu đầu tiên của con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh trên biển.
Tin vui thắng lợi của chuyến chở vũ khí đầu tiên bằng đường biển vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) được báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bác Hồ trực tiếp gởi điện biểu dương những cán bộ, chiến sĩ, công nhân đã góp công sức để lập nên chiến công xuất sắc. Tiếp theo tàu Phương Đông I, các tàu Phương Đông II, III, IV trong vòng 02 tháng đều lần lượt cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn, chở được 111 tấn vũ khí cùg nhiều trang bị, thuốc men cho Quân khu 9. Đây là thắng lợi lớn trong lúc lực lượng vũ trang Nam bộ đang phát triển, rất cần vũ khí, việc đưa vũ khí vào vùng đất tận cùng Tổ quốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần củng cố niềm tin, quyết tâm cho đồng chí, đồng bào đang chiến đấu củng cố niềm tin vào Đảng, Bác Hồ, vào hậu phương lớn miền Bắc, vào thắng lợi của cách mạng miền Nam
Sau khi đưa vũ khí vào Cà Mau, ba tàu được sửa chữa chuẩn bị trở ra Bắc để tiếp tục nhận nhiệm vụ vận chuyển, con tàu thứ nhất ở lại sử dụng tại bến. Để có lực lượng tại chỗ tiếp nhận, bảo quản và chuyển giao hàng hoá cho các địa phương, Khu 9 quyết định lập Đoàn 962 do đồng chí Tư Đức làm đoàn trưởng, đồng chí Sáu Toàn làm chính uỷ, đồng chí Bông Văn Dĩa làm phó đoàn. Nhiệm vụ Đoàn 962 lúc bấy giờ là tổ chức triển khai bến bãi, kho chứa để tiếp nhận, cất giữ chuyển giao hàng theo lệnh phân phối của Trung ương cho các tỉnh như: Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Long An... và lực lượng trong tỉnh để kịp thời phục vụ chiến đấu.
Chiến thắng liên tiếp và ngày càng lớn của quân và dân miền Nam là một thực tế để Mỹ - Nguỵ hiểu rằng: chúng đã không ngăn chặn được con đường vận tải trên bộ và trên biển của ta, nên chúng tổ chức thêm lực lượng để ngăn chặn từ trong bờ ra đến ngoài khơi. Gần bờ thì có lực lượng Công an Duyên Hải của Ngụy tuần tra ngày đêm, xa bờ một chút thì có tuần dương hạm, ngoài khơi thì Hạm đội 7 của Mỹ luôn tuần tra kiểm soát giáp nhau trên biển. Ngoài ra, có hệ thống rađa chúng giăng trên biển để phát hiện tàu lạ, trên không thì có máy bay đủ các loại tuần tra liên tục, ban đêm thì chúng dùng hồng ngoại tuyến để săn và thả pháo sáng khi có động, song lịch sử có những điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của con người. Tàu địch ken dày, tàu vận chuyển vũ khí của ta cứ đi và vũ khí vẫn đến những nơi cần đến. Theo yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống vận tải quân sự chi viện chiến lược cho cuộc chiến đấu anh hùng của quân và dân ta.
Trên con đường Hồ Chí Minh trên biển mặc dù gặp muôn vàn khó khăn nguy hiểm, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ cùng Hải quân, nhân dân vẫn kiên quyết ra đi và đã lập được nhiều chiến công, nêu cao những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đổ hy sinh, sự tài giỏi, mưu trí sáng tạo chiến đấu trên vùng biển của Tổ quốc, luôn đương đầu với địch, vật lộn với sóng to gió lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong những tình huống phức tạp, khó khăn nhất, vững vàng nhất để đưa tàu và vũ khí tới bến bãi an toàn.
Cũng tại bến này, còn là nơi diễn ra nhiều trận chiến đấu dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 Hải quân, Đoàn 962 Quân khu 9 và quân, dân địa phương kiên cường chiến đấu với máy bay, tàu chiến địch, để bảo vệ tàu, vũ khí an toàn. Tiêu biểu như các trận chiến đấu của tàu 42, tàu 69, tàu 100, tàu 187, tàu 645... đó là những tấm gương cao đẹp, đồng thời, nói lên tính quyết liệt, đầy khó khăn nguy hiểm của công tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển. Để làm nên con đường huyền thoại trên biển với những thành tích có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Từ đây, lịch sử dân tộc ghi thêm nét sáng tạo độc đáo trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh chống Đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn đất nước: “đường Hồ Chí Minh trên biển”.
Tuyết Chinh
(Theo hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa)