Ngày 27 tháng 4 năm 2024
Liên kết website

Lễ Kin Pang Then của người Thái trắng

Một trong những di sản đặc biệt được người Thái trắng tỉnh Điện Biên trao truyền đến nay là Lễ Kin Pang Then, tại bản Na Nát, phường Na Lay, thị xã Mường Lay. “Kin” có nghĩa là ăn, ăn mừng; “Pang” là lễ, người dự lễ; “Then” là chỉ các vị thần linh ở Mường Trời.

Lễ Kin Pang Then diễn ra vào dịp đầu xuân (sau Tết Nguyên đán), từ trước rằm tháng Giêng đến trước rằm tháng Ba hàng năm, cứ 3 năm lại tổ chức lớn một lần. Lễ do người làm Then tổ chức để gặp mặt các con nuôi về tạ ơn, mừng mệnh Then, diễn ra từ 3 đến 5 ngày, cũng có thể dài hơn hoặc ngắn hơn tùy thuộc vào số lượng con nuôi nhiều hay ít. Mỗi năm, vào dịp Lễ Kin Pang Then, không chỉ người Thái trắng mà đông đảo các tộc người trong vùng cũng về dự lễ.

Người làm Then thường ở trong gia đình có truyền thống làm Then. Ngay từ khi nhập nghề và hành nghề, họ phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện gian khổ, vất vả trong nhiều năm: học khấn, đàn, thuộc hàng ngàn câu hát; biết hát then, hát mạng, hát xao xên theo hành trình lễ hát khấn cầu. Trên thực tế, người làm Then là những người có tài học truyền khẩu các bài thơ, các bài hát, làn điệu trong then, có năng lực ứng tác trong thơ ca, thuần thục phần nhạc đệm của cây đàn tính tẩu.

Các lễ thức thực hiện chủ yếu do người làm Then đảm nhiệm. Trước và trong những ngày làm lễ Kin Pang Then, người làm Then trành trùng với ngày mất của cha mẹ đẻ, kiêng sinh hoạt vợ chồng, kiêng ăn thịt lợn trắng, trâu trắng, cá da trơn, lươn, tôm, không ăn, uống đồ thừa, không đi qua dây phơi, máng nước.

Trước ngày lễ, người làm Then mời khách và các con nuôi về dự; mời anh em, họ hàng, những người giúp việc đến bàn về công việc tổ chức và phân công nhiệm vụ. Tại nhà người làm Then, mọi người giúp mua sắm lương thực, thực phẩm, làm lễ vật làm bằng len, gấp bằng giấy, treo cây pang như: hoa chuối rừng, các con giống, chim én, tổ chim én, biểu tượng trống, chiêng, quả còn, dải băng, cá…, phân công người đi tìm, chọn cây pang trên rừng về trang trí không gian hành lễ (sàng pang).

Cây pang được chọn phải có gốc, thân thẳng đẹp, không cụt ngọn, lá xanh tươi, đưa về dựng trong nhà nhưng không được chạm nóc. Khi chọn được cây pang, người làm Then phải khấn xin phép thần núi, thần cây cho rước cây về làm lễ. Cây pang là trung tâm của nghi lễ, gốc dựng 6 khúc thân chuối tượng trưng cho đàn trâu. Ngoài ra, trên cây pang được cài thêm các loài hoa rừng, những dải khăn lụa nhiều màu, dải dây băng kim tuyến để thêm rực rỡ. Trang trí xong, cây pang được quét nước vôi vào thân, cành hàm ý giữ hồn những người tham gia lễ khỏi ham lên cõi Then chơi mà lạc lối không về trần gian được.

Bàn thờ Then được lau dọn sạch sẽ, trang trí hoa đuôi én (boskén), quả còn, đan thêm các con giống mới (dế mèn, con quạ, chim bồ câu, con ve…), biểu tượng trống, chiêng; hai cọc đỡ bàn thờ treo 2 hoa chuối biểu tượng cho hoa chuối trời. Trên bàn thờ đặt bánh kẹo, hoa quả, hương, dưới bàn thờ là nơi đặt lễ vật của các con nuôi, bà con về dự lễ.

Trước bàn thờ Then là mâm đồ lễ, gồm: đồng bạc trắng, khăn xòe, lá trầu không, trứng gà sống, gạo, bát tô sứ, hương, chùm chuông tượng trưng cho chuông ngựa, hoa trung quân, cây nến nhỏ, đĩa, chén, gói gạo, gói muối, rượu, bát nước, điếu cày, đĩa trầu, cuộn vải dệt trắng lớn; vật dụng của chủ lễ: kiếm, vòng bạc, đĩa để đồng tiền âm dương, sừng nai, lưỡi rìu đá (lưỡi búa thần sét), viên đá nhỏ dài (chân ngựa), viên đá bé (Then nọi - Then bé), túi ngọc bùa, đồng tiền âm dương, chùm chuông đồng, đàn tính, khăn phủ đầu gối, áo, khăn đội đầu, thắt lưng, quạt giấy, răng lanh lợn rừng, gương nhỏ; lễ vật cho ngựa các quan Then mường Trời: răng lanh lợn rừng, thóc, bát tô sứ, gạo, trứng gà, thóc, hoa trung quân, hoa dâm bụt, chiếc sọt nhỏ (tẻ) bày lễ.

Lễ Kin Pang Then diễn ra trước bàn thờ Then trong nhà chủ lễ. Phụ giúp chủ lễ trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ gồm: 1 báo khỏa, 1 xao chay, 2 me đa (1 chính, 1 phụ), những người giúp việc như: sắp lễ, lên hương, dâng lễ, tiếp nước, rượu, trầu, nghe và truyền lời của Then đến người dâng lễ, xóc nhạc cho Then. Chủ lễ, báo khỏa, xao chay mặc áo và đội mũ dùng trong nghi lễ, người dự lễ, con nuôi mặc y phục dân tộc. Nhạc cụ sử dụng trong nghi lễ gồm: đàn tính, nhạc xóc, trống, chiêng, chũm chọe. Trong suốt quá trình hành lễ, người làm Then đàn, hát theo các điệu then cổ như: hát mạng, hát then, hát xao xên.

Sáng sớm ngày mở lễ, gia đình chủ lễ bày một mâm lễ chung đại diện cho cộng đồng đặt bên trái bàn thờ Then, gồm: 1 con lợn luộc cùng lục phủ ngũ tạng đặt dưới đuôi, 2 con gà luộc (1 trống, 1 mái) với nội tâm đặt bên trong, 4 nắm xôi, bát đũa, chén rượu. Sau đó, gia đình chủ lễ đón tiếp con nuôi thuộc các tộc người Thái, Kinh, Mông, Mảng, Khơ Mú… từ khắp nơi về dự lễ. Con nuôi đến đều chuẩn bị lễ vật tạ ơn gồm: hương, rượu, xôi, gà (1 đôi trống mái), hoa quả, bánh kẹo.

Khi mâm lễ của con nuôi được bày trước bàn thờ Then, chủ lễ thắp hương xin phép tổ tiên, Then gốc, các thần linh mường bản và mường Trời mở lễ hội Kin pang then. Chủ lễ thực hiện nghi lễ nhập đồng bằng xin quẻ âm dương, để dẫn nhập hồn Then, trình lý do mở lễ, mong các thần linh phù hộ cho bản mường no ấm hạnh phúc. Chủ lễ bắt đầu với lễ thức chúc mừng lễ Kin Pang Then (chụm kiệu pang), đàn hát điệu ra mắt, mời rượu (ók nả, mợ lảu), khấn tâm linh mời rước các thần linh, ghi nhận tâm thành và công lao của các con nuôi...

Tiếp theo, chủ lễ niệm chú xin thông họng (cặm măn khọ púng), khấn xin thần ca hát, ẩm thực (Meng Ngoạn, Ý Liếng) ban cho giọng hát trong, vang, truyền cảm, làm hết lễ mà không khản tiếng; cầu Ải Tạo Nọi (Tạo Báo Nọi) cho các khớp tay mềm dẻo để đàn hay, múa dẻo, hầu các vua quan, thần tiên thật khéo; cầu xin vua Then phù hộ và ban cho quyền năng để tiếng nói có uy lực…

Chủ lễ hát trình báo mâm lễ (lau chơng pạn then) của con nuôi: đọc tên tuổi, địa chỉ, lễ vật dâng cúng của từng người dâng lên các vua, quan Then mường Trời, mong chứng giám tâm thành và cầu xin được phù hộ một năm mới mạnh khỏe, hạnh phúc, làm ăn gặp nhiều may mắn.

Thầy Then nhận lễ vật từ con nuôi. Ảnh: Dương Anh

 Chủ lễ hát khúc mở đường (đoóng tạng) gọi thiên binh mở đường lên mường Trời, căn dặn người giúp việc cùng lên, cùng về, đừng mải chơi lạc lối quên đường về mường Trần. Hành trình của chủ lễ về trời đầy gian nan, qua nhiều địa hình hiểm trở và đến mỗi nơi đều phải dâng lễ với điệu hát dâng lễ thần núi (Pú khău sam bắc). Lên đến mường Trời, chủ lễ hát điệu mời vua Trời, vua Then và cả những vị thần chưa kịp xuống về dự lễ (mợi Pô Phạ, Pô Then). Về đến mường Trần Gian, chủ lễ hát điệu mời các vua Trời, vua Then vào dự lễ, rồi hát điệu trình báo về quá trình chuẩn bị lễ; việc các con nuôi, bà con đã không quản đường xa, hoàn cảnh nghèo khó, cố gắng sắm lễ dâng tạ, mong vua quan, thần linh mường Trời phù hộ. Chủ lễ báo cáo: nhờ được thần linh khuyên dạy, mình đã chữa được cho bao người khỏi bệnh, bao nhiêu người chưa khỏi trong năm. Từng con nuôi mời rượu, dâng lễ tạ thần linh để chủ lễ đọc tên tuổi, kể về bệnh tật, hoạn nạn đã được Then giải, cầu xin quan Then phù hộ cho họ. Với con nuôi đang học việc làm Then để cứu người, thầy của chủ lễ cũng tận tình chỉ bảo, dạy cho từng lời ăn, tiếng nói, điệu đàn, giúp họ mau chóng thành thạo công việc để giúp ích cho đời.

Vì nghi lễ kéo dài nên vào buổi trưa, buổi tối và đêm, chủ lễ xin phép vua quan, thần linh nghỉ ngơi, để mọi người vui chơi, ăn uống. Trong bữa cơm, chủ lễ luôn bày trên mâm một đĩa nhỏ với 2 chén rượu, 1 quả trứng gà luộc đặt trong chén để mời Then gốc cùng hưởng lộc của các thần linh với cộng đồng.

Ngoài thực hiện nghi lễ tạ Then của các con nuôi, tất cả người tham dự còn múa hát quanh cây pang trong tiếng chiêng, trống, tiếng đàn hát rộn ràng, người giúp việc của chủ lễ đứng vòng trong chúc rượu cộng đồng; các chị, các mẹ tung gạo tượng trưng cho cơn mưa; mọi người cùng chơi trò cày bừa, gieo hạt, chọi trâu, hái nấm và các trò chơi dân gian như: tung còn, chơi tó má lẹ, đánh cù.

Khi kết thúc nghi lễ, chủ lễ hát lời gọi âm binh và tiễn các quan Then về mường Trời (xúng báo xôông). Quay trở về mường Trần, chủ lễ hát lời cảm tạ và tiễn các thần linh, quan tạo bản mường, thầy của chủ lễ, hẹn năm sau lại về dự lễ. Thầy của chủ lễ được mời trở về ngự tại bàn thờ Then. Mọi người lại múa quanh cây pang, múa điệu quét hoa tàn (quát bók héo) trong tiếng trống, chiêng và tiếng đàn hát của chủ lễ. Sau đó, mọi người cùng hạ cây pang, thu dọn không gian lễ và cùng ăn bữa cỗ lộc thần linh. Chủ lễ dừng đàn, cho treo đàn bên cạnh bàn thờ Then và chia tay các con nuôi, bà con, hẹn đến dự lễ năm sau.

Lễ Kin Pang Then đã bảo tồn, nuôi dưỡng và duy trì nghệ thuật hát then, hát dân ca, múa xòe, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, tri thức bản địa và các tín ngưỡng tâm linh cổ…

Với những giá trị đặc biệt trên, Lễ Kin Pang Then được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ngày 08/6/2015./.

Liên kết website