Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước
Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước - phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, được hình thành vào khoảng thế kỷ XVII, do cụ Huỳnh Bá Quát (quê gốc từ Thanh Hóa) khởi dựng, khi di cư vào đây sinh sống. Ban đầu, làng nghề này chỉ làm các sản phẩm dân dụng. Đến khoảng đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn cho xây dựng nhiều cung điện, lăng tẩm, nghề đá ở đây có điều kiện phát triển, uy tín của làng nghề cũng nâng cao, một số thợ giỏi được triều đình phong hàm Cửu phẩm, nhiều thợ của làng được mời đi làm nghề ở khắp nơi.
Công cụ sản xuất của nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước hiện nay bao gồm cả công cụ thủ công và máy cơ giới.
Về công cụ thủ công: người thợ hiện vẫn dùng các công cụ như búa tạ, xà beng để khai thác đá; con vọt, con chạm để bóc tách các lớp đá; mũi xó: loại dùng để tách đá, loại dùng đục phác thảo; mũi bạt để chặt đường thẳng hay cạnh góc vuông; mũi ve để tạo các chi tiết trên sản phẩm, như khắc chữ, trang trí hoa văn; mũi ngô để tạo các đường lượn tròn trên sản phẩm khi tạo chi tiết trang trí; thước đo; cưa xẻ đá và cưa cắt vòng; khoan để khoan các lỗ nhỏ, eo hiểm; bàn mài làm bóng và nổi màu sắc cho sản phẩm.
Về công cụ sản xuất bằng máy cơ giới: đầu những năm 80 của thế kỷ XX, trong một số công đoạn sản xuất, người thợ đá Non Nước đã bắt đầu sử dụng máy cơ khí hiện đại. Hiện nay, máy móc thay thế hoạt động thủ công ngày càng nhiều. Ứng dụng khoa học kỹ thuật góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm. Các thiết bị máy móc hiện đại được sử dụng trong nghề điêu khắc đá Non Nước hiện nay đa số được nhập khẩu từ Nhật Bản, Đài Loan, Đức, như: tời kéo tự động, máy cắt của tời kéo, palăng, máy cắt, máy tiện, khoan cầm tay...
Trước kia, đá nguyên liệu thường được khai thác tại chỗ - núi đá Ngũ Hành Sơn, chủ yếu là đá cẩm thạch, có nhiều màu sắc, hoa văn đẹp như màu đỏ, đen, trắng, kết cấu mịn, mềm, dễ đục. Công việc khai thác đá rất vất vả, đòi hỏi người khai thác phải có sức khỏe và kinh nghiệm để chọn được loại đá thích hợp cho việc chế tác sản phẩm. Người chuyên lấy đá được gọi là “ông Võ”, thường là những cụ già, có nhiều kinh nghiệm và bí quyết nhà nghề, dẫn theo đội thanh niên khỏe mạnh vào núi lấy đá. Việc đầu tiên là tìm mạch đá để khai thác, chọn hướng khai thác hầm theo mạch đá. Ông Võ dùng cây tựa (bằng sắt dài 60 -70cm, một đầu dẹt, một đầu uốn cong) để tìm thớ đá, sau đó, thợ khai thác dùng các công cụ tách đá rồi chẻ thành những tảng nhỏ phù hợp với yêu cầu sử dụng. Với kinh nghiệm làm nghề, người thợ giỏi còn có thể biết được đá mềm hay cứng, có thể tạo ra loại sản phẩm gì qua tiếng kêu của đá.
Gần đây, do nguồn nguyên liệu tại chỗ ngày càng cạn kiệt. Từ năm 1990, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ra quyết định không cho phép khai thác đá ở Ngũ Hành Sơn nữa, thợ làng nghề phải nhập đá từ các nơi khác về. Mặc dù những người thợ không còn tự khai thác đá tại Ngũ Hành Sơn nhưng những kinh nghiệm chọn đá, chẻ đá, tách đá vẫn được ứng dụng trong làm nghề.
Khi có nguyên liệu, thợ điêu khắc đá sẽ tạo hình sản phẩm ở dạng thô. Đó là công đoạn ra phôi, công việc của “ông Văn”. Quá trình ra phôi được thực hiện bài bản, như: tìm mặt phẳng để tạo chân đế, xác định điểm chuẩn tạo hình. Khi xác định được mặt phẳng và các điểm, thợ đá tiến hành vẽ phác thảo trên giấy, sau đó vẽ lên mặt đá hoặc in trực tiếp lên tảng đá. Với những sản phẩm khó, có giá trị nghệ thuật cao, người thợ phải vẽ phác thảo và làm phôi bằng đất sét trước, khi đạt yêu cầu họ mới làm chính thức. Theo bản vẽ phác thảo, người thợ tiến hành đục phôi, tạo hình sản phẩm.
Khi phôi hoàn thành, người thợ sẽ làm các chi tiết để hoàn thiện sản phẩm, như: chạm hình nét, trang trí hoa văn, mài, đánh bóng sản phẩm. Với người thợ, ở công đoạn này, việc quan trọng nhất là chạm hình nét và trang trí. Công đoạn thực hiện chi tiết thể hiện kỹ thuật chạm khắc đá và đôi tay vàng của người thợ. Ngoài quy trình chung cho tất cả các sản phẩm, thì mỗi loại sản phẩm lại có yêu cầu kỹ thuật cụ thể.
Để sản phẩm có màu sắc đẹp, đôi khi người thợ phải nhuộm đá bằng phẩm màu kết hợp với bã chè xanh, xi đánh giầy màu nâu, màu chàm... Bí quyết để có màu đẹp phụ thuộc vào việc pha màu, tạo nhiệt độ và dùng độ đậm nhạt của màu. Sản phẩm hoàn thiện cần trải qua nhiều công đoạn, nhờ bàn tay tài năng, kinh nghiệm của người thợ.
Sản phẩm điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước đa dạng về loại hình, phong phú về màu sắc, kích cỡ, chủng loại. Những sản phẩm có truyền thống lâu đời, gắn liền với sự phát triển của nghề chủ yếu có các loại sau:
- Sản phẩm phục vụ đời sống sinh hoạt, như ấm chén, bát đĩa, bình cắm hoa, chân cột...
- Sản phẩm phục vụ đời sống tín ngưỡng, như bia mộ, tượng... Thợ điêu khắc đá Non Nước có tài làm hai loại tượng: tượng tròn và phù điêu, song phổ biến và sở trường vẫn là tượng tròn. Dạng tượng tròn gồm các nhóm sau:
+ Nhóm tượng tâm linh: tượng Phật, tượng La Hán, tượng Đức Mẹ và Chúa hài đồng...
+ Nhóm tượng Chăm: nghệ nhân điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước phục chế và chế tác tượng Chăm dưới dạng tượng tròn và phù điêu. Các tác phẩm này rất đa dạng, như: tượng chim thần, bò thần, rắn thần, tượng thần Siva, tượng Genesa, tượng vũ nữ, tượng makara hai đầu, các lá nhĩ phù điêu vũ nữ, biểu tượng linga, yoni...
+ Nhóm tượng trang trí: có hàng trăm mẫu mã và sản phẩm đủ kích cỡ nhưng chủ yếu là tượng động vật, trong đó có một số tượng gắn với đời sống tâm linh của người Việt, như: sư tử, cá chép trông trăng, rồng phun lửa, trâu, hổ... Bên cạnh đó, tượng tròn mang đề tài hiện đại được khai thác phục vụ nhu cầu của du khách, như: tượng chân dung thiếu nữ Việt Nam và phương Tây, tượng phỏng theo tượng của nước ngoài, tượng các nhà cách mạng, lãnh tụ...
Hằng năm, thợ điêu khắc đá ở Non Nước sản xuất được khoảng trên 80.000 sản phẩm các loại phục vụ nhu cầu của người dân địa phương và du khách đến tham quan. Nghề điêu khắc đá đã mang lại cho người dân nơi đây nguồn thu nhập ổn định. Người thợ điêu khắc đá ngoài việc hành nghề còn trao truyền cho lớp kế cận. Theo truyền thống, nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước được duy trì theo hình thức cha truyền con nối, truyền nghề theo hình thức cầm tay chỉ việc. Ngày nay, tính chất gia truyền này được nới lỏng do sự mở rộng phạm vi hoạt động của nghề và đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn lao động có trình độ cao.
Thợ điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nược được chia thành các bậc:
- Thợ mới học việc (thợ nhất): đục đá theo phác thảo.
- Thợ nhì: làm cùng với thợ cả công việc tạo phôi.
- Thợ cả (thợ chính): thợ tạo phôi, tạo hình dáng theo kích thước đã định và hoàn thiện các chi tiết của sản phẩm.
Công đoạn mài, rửa, đánh bóng bằng tay thường do thợ phụ làm, đa số là phụ nữ.
Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước có lịch sử lâu đời. Hằng năm, thợ điêu khắc đá tổ chức lễ tế ra nghề vào ngày mùng sáu tháng Giêng để cúng Tổ nghề và cầu xin sự phù trợ cho một năm mới. Lễ giỗ Tổ nghề được tổ chức vào ngày mười sáu tháng Ba, cũng là lễ hội chung của dân làng.
Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước ẩn chứa các lớp lịch sử, văn hóa trong từng công đoạn của nghề, trên từng sản phẩm, là bảo tàng sống về sinh hoạt văn hóa, đời sống tinh thần của người dân địa phương. Hiện nay, nghề này còn có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng, đã góp phần quan trọng vào sự dịch chuyển cơ cấu nông thôn, chuyển từ lao động giản đơn, năng suất thấp sang lao động có kỹ năng, năng suất cao. Nghề đã tận dụng được nguồn lao động nhàn rỗi, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân...
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc của nghề điêu khắc đá Non Nước, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa di sản văn hóa phi vật thể này vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghề thủ công truyền thống.